Cập nhật nội dung chi tiết về Diều Sáo Việt Nam Truyền Thống Và Hiện Đại mới nhất trên website Ngubao.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Từ bao đời nay, hình ảnh những chú bé ngồi trên lưng trâu thả Diều trong tranh dân gian Đông Hồ đã được coi như một biểu tượng của sự thanh bình của đất nước Việt Nam. Trong tâm thức của người Việt, thả Diều còn hàm chứa ý nghĩa tâm linh, khát vọng về ấm no hạnh phúc trong cuộc sống.
Lược sử phát triển
Từ bao đời nay, hình ảnh những chú bé ngồi trên lưng trâu thả Diều trong tranh dân gian Đông Hồ đã được coi như một biểu tượng của sự thanh bình của đất nước Việt Nam. Trong tâm thức của người Việt, thả Diều còn hàm chứa ý nghĩa tâm linh, khát vọng về ấm no hạnh phúc trong cuộc sống. Thú chơi Diều được phổ biến trên dải đất hình chữ S trải dài từ Bắc chí Nam đã rất lâu đời và mỗi vùng miền đều có những cánh Diều đặu Thcnủa người Khmer Nam Bộ với bộ phận phát âm bằng lá thốt nốt, Diều Kalang của người Chăm với hình dáng mang đậm dấu ấn tín ngưỡng phồn thực (trời – đất, âm – dương, đực – cái), Diều Huế cầu kỳ với màu sắc sinh động với hình dáng loài vật (rồng, công, phượng, bướm…) nhưng phổ biến nhất đến nay vẫn là Diều Sáo của đồng bằng Bắc Bộ.
Người dân vùng châu thổ sông Hồng vốn tài hoa và lịch lãm lạị cư trú trên những vùng đất bờ bãi mênh mông, đường đê uốn lượn, gió lộng quanh năm dường như đã nâng cánh thêm cho những cánh Diều bay lên. Hầu như ở làng nào cũng có người chơi Diều và biết làm Diều, khoét sáo. Nhiều lễ hội thả Diều truyền thống được tổ chức hàng năm như : Bá Dương Nội (Hoài Đức, Hà Nội), Sáo Đền (Song An, Vũ Thư, Thái Bình), Hòa Hậu (Lý Nhân, Hà Nam)… Thả Diều sáo chủ yếu được thực hiện sau mùa gặt hoặc đầu mùa mưa để cầu mong trời quang mây tạnh, mưa thuận gió hòa, lũ lụt không xảy ra – một nguy cơ luôn tiềm ẩn nơi đây. Lúc bấy giờ người nông dân cần khô ráo để thu hái, phơi phóng thóc lúa đồng thời cũng tự thưởng cho mình những giây phút thảnh thơi nghe sáo Diều vi vu. Cánh Diều và tiếng sáo lúc này đã trở thành sứ giả đem đến những điều tốt đẹp trọn vẹn của mùa màng.
Với nhiều làng quê thì cánh Diều Sáo vô cùng đặc biệt bởi nó không chỉ đơn giản là một trò chơi dân gian có lịch sử lâu đời mà thông qua đó còn mang chở vô vàn truyền thuyết lãng mạn, lý thú với nhiều ý nghĩa văn hóa đậm sắc Việt Nam và như để lý giải cho câu hỏi: Tại sao người Việt lại chơi Diều Sáo? Sâu xa hơn nó chính là chiều sâu tâm nguyện, mang theo triết lý sâu sắc của cư dân đồng bằng Bắc Bộ.
Hiện nay bia ký và chính sử chưa giúp ta có câu trả lời chính xác cho sự ra đời của Diều Sáo Việt Nam. Nhưng nếu xem xét trên mức độ phổ biến trong dân gian hay tìm kiếm thông tin từ các nguồn sử liệu khác chúng ta có thể hình dung ra niên đại cho những cánh diều này. Hình cánh Diều trong những bộ tranh khắc ván Đông Hồ (Bắc Ninh) mà ở vào thời thịnh vượng nhất thì có thể thấy Diều chí ít cũng đã có mặt vào khoảng thời gian trước thế kỷ XVI. Tục thả Diều trong không gian lễ hội Sáo Đền (Thái Bình) nơi thờ bà Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao là có từ khi bà mất và còn tồn tại đến ngày nay thì Diều Sáo đã phổ biến ở nước ta từ trước thế kỷ XIV. Nếu câu chuyện truyền thuyết giải thích về tục thi Diều Sáo hiện nay ở làng Bá Dương Nội (Bá Giang) Hà Nội gắn với vị Thành hoàng Nguyễn Cả là xác đáng thì Diều sáo đã có mặt ở đây hơn 1000 năm. Trong tác phẩm “Vân Đài Loại Ngữ” Mục IX – Vật phẩm (gồm 300 điều) năm 1773 nhà bác học Lê Quý Đôn viết về Diều rất rõ ràng: “Cái Diều giấy, tự Hàn Tín làm ra”(Điều 63) Ông cho biết: “Ngày nay người ta thả Diều giấy lên cao cho trẻ con ngửa mặt lên trông để cho nhiệt hỏa từ trong người trẻ tiết ra hơi thở” rồi nhận xét : “Xem đó ta đủ thấy cổ nhân làm đồ chơi nhỏ mọn như thế cũng có ý nghĩa lắm” (điều 62). Gần đây hơn là trong cuốn sách nổi tiếng ” Kỹ thuật của người An Nam ” ta thấy có đến 6 bức tranh về Diều và thả Diều với nhiều hình dáng Diều khác nhau. Phải nói thêm đây là cuốn sách in theo lối mộc bản gồm 348 trang in cỡ lớn (62×44 cm) trên chất liệu giấy dó, ghi lại cảnh sinh hoạt, lao động hằng ngày của người Việt vào khoảng đầu thế kỷ 20. Sách do ông Henri Oger (người Pháp) cùng một số họa sĩ, thợ khắc mộc bản, thợ in thực hiện tại Hà Nội từ năm 1808 – 1809. Trong số 6 bức thì có 2 bức mô tả cảnh thi Diều, điều đó càng chứng tỏ rằng tục chơi Diều đã phổ biến trong dân gian đến thế nào. Nếu xét về hình thức cánh Diều mang hình ảnh chiếc lá (một thân, cong nhọn hai đầu- khó bay ổn định) sẽ thấy ró nét tương đồng với Diều các nước trong khu vực (Đông Nam Á). Tuy nhiên giới chuyên môn thừa nhận giả thuyết cánh Diều Sáo Việt Nam ra đời sớm hơn các nước trong khu vực này và chính Diều Sáo chứ không phải loại nào khác là đặc trưng và tiêu biểu cho Diều Việt Nam.
Trải qua một thời gian dài chiến tranh loạn lạc và kinh tế khó khăn, thêm vào đó là sự du nhập tràn lan của các loại đồ chơi hiện đại nhập khẩu đã làm thú chơi tao nhã và đậm đà bản sắc dân tộc này bị lãng quên, mai một ít nhiều. Cùng với sự nhiệt tâm gắng sức của những người có tâm huyết, hiện nay ở nước ta, thú chơi Diều đang ngày càng được quan tâm. Nhiều luận văn nghiên cứu về Diều Việt Nam của các học giả trong nước và quốc tế được thực hiện. Các bài báo, phóng sự truyền hình… về Diều được đăng tải ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thông. Các lễ hội truyền thống về Diều được khôi phục như ở Bá Dương Nội (Đan Phượng, Hà Nội); Sáo Đền (Song An, Vũ Thư, Thái Bình)… các liên hoan, hội thi Diều quy mô được tổ chức như Hội thi Diều ở Vũng Tàu, Hà Nội, Nam Định…Nhiều Câu lạc bộ Diều ra đời quy tụ hàng ngàn thành viên ở mọi lứa tuổi tham gia sinh hoạt. Bên cạnh đó, xuất hiện hàng chục ca khúc, hàng trăm bài thơ và nhiều tác phẩm hội họa, điêu khắc, điệu múa… nói tới hình tượng cánh Diều Sáo. Năm 2009, Liên hoan Diều quốc tế lần đầu tiên được tổ chức thành công ở Vũng Tàu, cánh Diều Sáo Việt Nam như được nâng cánh thêm bởi làn gió mới. Đặc biệt giới trẻ đã nhiệt tình đón nhận hưởng ứng và quay trở lại tiếp nối thú chơi này. Đó thực sự là tín hiệu đáng mừng cho việc chấn hưng văn hóa Diều Việt Nam.
Những bước đi trong kỹ thuật làm Diều Sáo
Từ xưa đến nay để có một chiếc Diều Sáo bay cao, ổn định với tiếng sáo du dương cần rất nhiều thời gian và người chế tác phải có đôi tay khéo léo.Tùy theo mức độ cầu kỳ, và hình dáng chế tác mà một chiếc Diều Sáo phải mất từ vài ngày đến cả vài tháng mới xong. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà chiếc Diều Sáo Việt cũng có những bước phát triển khác nhau. Về cơ bản Diều Sáo gồm 2 phần chính là Diều (vật mang chở) và sáo (vật tạo âm thanh). Người làm Diều Sáo xưa nay thường vẫn chỉ quan tâm chú ý đến phần “nghe” là sáo mà ít chú trọng đến phần “nhìn” là thân Diều trong việc chế tác. Cho đến mãi những năm gần đây người chơi vẫn chỉ làm ra những chiếc Diều đơn sơ, mộc mạc nếu như không muốn nói là đơn điệu và sơ sài. Ngược lại thì người chơi lại đặc biệt cầu kỳ, “khó tính” với mỗi chiếc/bộ sáo từ vật liệu đến tạo dáng hình và nhất là chỉnh âm thanh sao cho đạt đến độ tinh tế, hài hòa. Qua tìm hiểu khảo sát, chúng tôi nhận thấy đặc điểm địa lý tự nhiên cũng như địa văn hóa đã ảnh hưởng rất lớn đến hình dạng và âm thanh của Diều Sáo ở mỗi địa phương khác nhau
Cánh Diều: Tuy có sự khác nhau ở mỗi vùng về tạo dáng nhưng các công đoạn làm một cánh Diều thì tương đối giống nhau là đều công phu từ cách chọn vật liệu và hoàn thiện. Khung Diều cần chắc và nhẹ nên phải được làm bằng những tay tre già, ít mấu, khi vót phải đều như đuôi chuột, gò khung phải cân rồi uốn đều như cánh cung. Giữ khung Diều là một “sống Diều” bằng tre cứng to bản, nhô dài ra hai bên khung. Mỗi vùng lại có “kinh nghiệm dân gian” riêng để chống mối mọt hay để Diều dễ bay hơn.
Hình dáng: được cho là truyền thống của Diều Sáo Việt chỉ có một thân mang dáng một con thuyền/ mảnh trăng lưỡi liềm hay như một chiếc lá và không có bộ phận đuôi. Để dễ phân biệt và nhận biết các nghệ nhân xưa thường gọi tên Diều gắn với các vật thân quen xung quanh như: Cánh Chanh (lá chanh); Cánh Muỗm (lá muỗm); Cánh Phản (to phẳng, không uốn cong); hay Cánh Cắt ( thuôn nhọn như cánh chim cắt)…Khung Diều sau khi được đẽo gọt cẩn thận được buộc chắc chắn và dùng các sợi dây nhỏ đan lưới hình mắt cáo hay bàn cờ để “gò” dáng cân đối đồng thời tăng thêm độ chiu gió và là “giá đỡ” cho phất (dán) giấy sau này. Loại Diều này đòi hỏi người làm phải kỳ công và khéo léo thì mới đảm bảo dễ bay và ổn định.
Về sau này để Diều dễ bay ổn định và có thể mang những bộ sáo lớn người chơi đã cải tiến thêm vào bộ phận đuôi. Đuôi Diều cũng có nhiều hình dạng khác nhau và cũng mang tính đặc trưng vùng miền. Có nơi chỉ gồm hai cánh tròn nhỏ cân đối hai bên xương sống Diều (còn gọi là “dái Diều”), có nơi thêm phần nối giữa đuôi và cánh Diều bằng thân Diều (có nơi gọi là “bẹn Diều”). Căn cứ vào mức độ phổ biến tại các vùng miền hiện tại chúng tôi tạm chia hình dáng Diều theo năm định dạng địa lý tiêu biểu như sau : Diều Bá Giang (truyền thống); Diều Vĩnh Bảo; Diều Kiến Thụy; Diều Kinh Môn; Diều Thái Bình.
Gần đây nhiều loại vật liệu mới như sợi thủy tinh, fiber hay graphite carbon đã được đưa vào để giúp khung Diều mạnh mẽ và nhẹ nhàng hơn. Nếu trước đây cánh Diều Sáo Việt Nam chỉ bay trên cánh đồng làng do có bộ khung hình cố định, không thể di chuyển đi xa thì ngày nay những người chơi đã biết ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại để có những bộ khung Diều có thể tháo, gấp gọn lại nhưng vẫn đảm bảo hình dạng truyền thống và độ bền chắc như mong muốn. Qua đó giúp cho cánh Diều Sáo Việt Nam bay cao vươn xa đến với bạn bè ở khắp năm châu.
Áo Diều: cũng giống như khung được hoàn thiện bởi cả một công đoạn công phu, cầu kỳ gọi là phất Diều (dán/khâu/may Diều).
Diều xưa được phất hai mặt bằng giấy bản, giấy dó với chất kết dính là nhựa cậy (như làm quạt) rồi được phơi khô trong bóng râm để tránh nứt vỡ. Nhựa cây được đổ ra mâm rồi lấy giấy nhúng cho ướt đều để phất lên khung đã gò sẵn trước đó. Phất kiểu này khiến cho cánh Diều khi khô căng phẳng như mặt trống lại có thể chịu được mưa ẩm và không nấm mốc hay gián nhấm. Cách làm này cũng khiến cho Diều xưa chỉ có một tông màu đơn giản từ vàng tối đến nâu sẫm.
Sau này khi có các vật liệu mới người chơi đã thay thế bằng giấy bao bì, vải, màng nilon… và phất bằng hồ, keo dán hoặc khâu cố định lên khung. Màu sắc cũng được cải thiện đa dạng hơn.
Vài năm trở lại đây, khi đã có sự giao lưu với quốc tế thì một số nghệ nhân đã sử dụng các vật liệu tiên tiến và chuyên dụng như vải dù, vải polyester vải rip-stop. Cùng với vật liệu là công nghệ may ống bằng máy giúp áo Diều siêu nhẹ và siêu bền có thể tháo lắp khỏi khung Diều dễ dàng và linh hoạt. Đồng thời cũng giúp cho những cánh Diều sáo hiện đại ngày càng trở nên rực rỡ, tinh xảo như những bức tranh ghép vải nghệ thuật mà vẫn giữ nguyên dáng vẻ truyền thống.
Sáo Diều: Khác hẳn với cánh Diều, có lẽ Sáo Diều đã không có sự thay đổi đáng kể nào kể từ khi nó ra đời. Có chăng nghệ nhân ngày nay cũng chỉ đưa máy móc, phụ liệu vào một vài công đoạn cho nhanh hơn mà thôi. Nó thực sự không đáng kể để có thể gọi là sự thay đổi hay cải tiến. Dù là xưa hay nay, chiếc Diều Sáo có “hồn” hay không thì phần quan trọng nhất vẫn là cái/bộ sáo gắn trên nó. Các công đoạn làm Sáo Diều vẫn phải thủ công đòi hỏi nhiều công phu và đôi tay khéo léo mà người làm không khác gì nghệ sĩ thực thụ.
Phần ống sáo tốt phải được chọn từ cây nứa đốt dài, có nơi bỏ ruột chỉ lấy phần cật nhưng có nơi (phần nhiều) lại làm ngược lại. Chính giữa khoét một lỗ vuông thông qua thân ống tre, phía trong hai bên lỗ lấy tre hay gỗ nhẹ, mỏng bít lại bằng keo, hai đầu ống gắn hai miệng (còn gọi là bửng) sáo. Gỗ dùng để khoét miệng sáo phải là gỗ mít hoặc gỗ vàng tâm, thậm chí là dùng sừng trâu. Miệng sáo khoét một lỗ dài bằng đường kính trong của ống sáo nơi đây gió sẽ lọt vào, rung trong ống sáo rồi thoát ra cùng với âm thanh. Sáo nào có độ rung tốt gọi là “sáo ngân”, sáo nào không có độ rung, hoặc rung ít gọi là “sáo xổng”. Cái khó của người làm sáo là làm sao chỉnh cho hai bên miệng cân bằng và phát ra cùng một thanh âm đồng thời các sáo trên một dàn phải “ăn” tiếng với nhau tạo nên một hợp âm mong muốn. Âm thanh của một bộ sáo thường được các nghệ nhân “định vị” gắn với các âm thanh quen thuộc thường ngày như: tiếng chuông (chùa, nhà thờ); tiếng cồng; tiếng chiêng; tiếng ốc (tù và)… Gần đây cũng có người chỉnh âm sáo theo nhạc lý như: Hợp âm đô trưởng;: Hợp âm pha… Có sự khác nhau trong “gu” thưởng thức (âm sắc cao thấp, tiết tấu nhanh chậm…) và cách đánh giá âm thanh sáo Diều ở mỗi vùng nhưng tất cả đều đồng thuận rằng một bộ sáo hay phải có âm thanh “tròn vành rõ tiếng” không có tạp âm và phải có độ ngân tốt.
Cũng tùy sở thích mà có vùng chỉ ưa chơi sáo đơn (một ống) nhưng phần nhiều là chơi sáo dàn ( gồm 3, 5, 7 ống hoặc hơn). Kích cỡ các sáo trong một bộ ở mỗi nghệ nhân đều theo tỷ lệ nhất định và không hoàn toàn giống nhau nhưng đều phải tuân thủ theo nguyên tắc nhỏ dần. Sáo lớn nhất được gọi là sáo cái. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre, buộc chặt với xương sống Diều. Tùy theo kích thước của mỗi chiếc Diều hay cấp độ gió nơi đâm/thả Diều mà người ta tạo/gắn cho nó một bộ sáo phù hợp hay còn gọi là ” Diều nào sáo ấy”. Một bộ sáo của Diều này gắn sang Diều khác có hình dáng kích cỡ khác nhau thì sẽ cho ra âm thanh khác nhau vì “hụt hơi” hoặc “thừa hơi”. Một bộ sáo thả trên vùng gió cấp 2 sẽ khác tiếng khi chơi ở nơi gió cấp 4. Chuyện chế tác từng chiếc sáo cho đúng cung bậc, hợp “khẩu vị” và chọn sáo cho hợp với Diều là cả một kỹ năng về âm nhạc đến tầm nghệ thuật không phải ai cũng làm được.
Trên đường hội nhập quốc tế
Mới chỉ cách đây dăm năm bạn bè quốc tế còn hầu như chưa biết đến Diều sáo mà nhắc tới Văn hóa Diều Việt Nam họ luôn cho rằng đó là những cánh Diều Huế sặc sỡ, đậm dấu ấn cung đình. Mới chỉ ít năm trở lại đây thông qua nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, Diều Sáo Việt mới có dịp bay cao, bay xa từng bước hội nhập và phát triển nhờ vào sự đam mê khao khát, tìm tòi và sang tạo của những nghệ nhân tiêu biểu như: Nguyễn Thanh Vân (thành phố Hồ Chí Minh); Nguyễn Văn Cư (Huế); Nguyễn Hữu Kiêm (Hà Nội)… Nhưng đặc biệt phải nhắc tới ông Quan Hằng Cao – một kỹ sư điện tử sống và làm việc tại nước ngoài – người hiểu được giá trị văn hóa ẩn sâu trong nó, ông luôn trăn trở tìm cách đưa Sáo Diều Việt Nam ra nước ngoài, giới thiệu với bạn bè quốc tế. Ông là người đi tiên phong trong việc cải tiến những cánh Diều sáo truyền thống từ hình thức cho đến vật liệu và phương pháp chế tác. Nhưng Diều sáo truyền thống khung bằng tre buộc cố định dài 4 – 5m, rất khó vận chuyển đi xa, nhất là đưa lên máy bay nên sau một thời gian dài tìm hiểu các loại Diều trên thế giới rồi mày mò, nghiên cứu, tháo lắp, làm hỏng cả chục con Diều, ông Cao đã tìm ra phương pháp làm xương Diều gấp gọn lại được và lắp ghép lại hoàn chỉnh chỉ trong vài phút. Các điểm buộc cố định khung Diều trước đây được thay bằng các khớp tháo lắp bằng kim loại nhẹ và chắc chắn. Áo Diều được may bằng vải tốt (mỏng, nhẹ, bền, không co giãn) do đó loại bỏ được các loại dây buộc mà Diều vẫn giữ đúng dáng khi lắp lại. Để tạo thêm sức hút cho Diều ông đã tỷ mỉ may khảm lên Diều những họa tiết trang trí thậm chí là cả bức tranh sinh động, tinh xảo bằng những miếng vải mầu ghép lại. Diều sáo giờ đây đã được nâng tầm trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ gồm hình ảnh sống động, âm thanh du dương, kết cấu bền chắc và sử dụng thuận tiện, dễ dàng. Tiếng Sáo Diều đặc trưng ngân nga, quyến rũ luôn làm bè bạn quốc tế kinh ngạc, thán phục tại bất kỳ lễ hội nào có đoàn Việt Nam tham dự là một thành công lớn khiến ông Cao rất đỗi tự hào.
Người ta bắt đầu nhắc đến Diều Sáo Việt Nam trong mỗi lễ hội Diều quốc tế được tổ chức trên thế giới. Nhiều bảo tàng trên thế giới đã sưu tầm trưng bày Diều Sáo Việt Nam. Từ “Diều Sáo” đã không cần phải dịch ra ngôn ngữ khác mà bạn bè quốc tế vẫn có thể hiểu được. Năm 2011 hai chuyên gia người Đức đã sang Việt Nam nghiên cứu về tiếng sáo Diều và quả quyết rằng: “Tiếng Sáo Diều tựa như tiếng đàn phong cầm trong các nhà thờ (thiên chúa giáo) có thứ âm thanh mang tính tự nhiên khiến người nghe có thể nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần, có thể dùng làm phương pháp trị liệu trong y học. Diều Sáo của Việt Nam thực sự là một di sản văn hóa quý giá không nước nào có được”.
Lê Thanh Bình
Các Tone Trên Cây Sáo Việt Nam
1.Tìm hiểu về các tone trên cây sáo
Bộ sáo ngang – các tone trên cây sáo
Chắc hẳn khác bạn mới chơi vẫn thắc mắc là tại sao các tone trên cây sáo lại gọi là Sáo đô, Sáo La trầm, sáo si giáng, Sáo Son Trầm, Sáo Fa Trầm, Sáo Rê, Sáo Mi….. Các tone trên cây sáo được phân biệt với nhau qua khoảng cao độ, khoảng tầm số mà cây sáo đó đạt được. Tên các loại sáo ví dụ như Sáo La Trầm, Sáo Đô, Sáo Sol trầm…. Được đặt theo tên tần số thấp nhất mà cây sáo đó đạt được. Đó chính là nốt Đồ (Hay nói khác là nốt Đô ở quãng 1)
Vậy chúng ta hiều Tần số âm là gì? Mỗi một âm, một nốt tạo ra âm, thì nó tạo ra tần số khác nhau.
Tần âm cao
Tần âm trung
Tần âm trầm
Tần âm siêu trầm
Tên gọi
Kí Hiệu
Tên gọi
Kí Hiệu
Tên gọi
Kí Hiệu
Tên gọi
Kí Hiệu
Sol cao
G5
Si
B4
La trầm
A4
Si trầm
B3
Fa cao
F5
Si giáng
Bb4
La giáng trầm
Ab4
Si giáng trầm
Bb3
Mi cao
E5
La thăng
A#4
Sol thăng trầm
G#4
La thăng trầm
A#3
Tần âm cao sẽ ít phổ biến từ A (La) đến D (Rê)
Rê cao
D5
Sol trầm
G4
La trầm
A3
Đô thăng cao
C#5
Fa thăng trầm
F#4
Sol trầm
G3
Rê giáng cao
Db5
Sol giáng trầm
Gb4
(khuyết C-D-E-F)
Đô trung
C5
Fa trầm
F4
Các âm tần siêu trầm từ Đô-Rê-Mi-Fa sẽ ít phổ biến
Khi mua sáo trúc âm tần siêu trầm cần phải xác định tone trước khi chọn mua.
Các tone sáo trúc
Mi trầm
E4
Cần chọn tone trước khi chọn mua sáo trúc
Mi giáng trầm
Eb4
Sáo trúc ở các tần âm trung là phổ biến nhất.
Rê trầm
D4
Rê giáng trầm
Db4
Do thăng trầm
C#4
Đô trầm
C4
Khi chúng ta thổi nốt Đô của cây sáo sau đó đo vào tuner hoặc bất kì một dụng cụ đo âm nào, nó ra khoảng tần số của nốt nào thì cây sáo đó được đặt tên là tone đó
Ví dụ sáo đô C5 khoảng tần số của nó giao động trong khoảng 523hz (hơn kém tầm 5hz thì sáo ấy là chuẩn) và khi thổi nốt Đô 2 trên phần mềm sẽ xuất hiện chữ C5, Thì đó được gọi là sáo đô C5. Tương tự với Sáo La Trầm thì giao động trong khoảng 440hz, đồng thời trên công cụ sẽ xuất hiện chữ A4.
2. Mới học thổi sáo nên chơi tone nào
Vậy với các tone trên cây sáo đa dạng như vậy, thì chúng ta nên chọn tone nào, và với mỗi bài hát thì nên chọn tone nào cho hợp lý.
Đối với những bạn mới tập thổi sáo, lượng hơi còn chưa khỏe, và cách cầm và bấm của các bạn cũng chưa được thông thạo, chúng ta nên chọn tone nào có cao độ không trầm quá, không cao quá. Khoảng cách bấm không xa quá, không trầm quá. Theo kinh nghiệm của mình thì tone Đô là phù hợp nhất. Các bạn muốn trầm hơn một chút có thể chọn Si hoặc Si giáng. Thường sẽ được khuyên dùng sáo Đô vì sáo Đô là sáo căn bản trong dàn nhạc. Các bạn có thể dùng lâu dài luôn.
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Cách Tính Xác Suất Trúng Của Xổ Số Vietlott Và Truyền Thống
Bạn thấy nhiều người trúng số và cũng có mong muốn đổi đời từ hình thức chơi xổ số này nhưng lại chưa có kinh nghiệm trúng số? Bạn thường đặt ra câu hỏi về cách tính xác suất trúng số là như thế nào nhưng không ai có thể trả lời cho bạn?
Trúng xổ số truyền thống đã khó, trúng Vietlott lại càng khó hơn. Ngày hôm nay, Trungxoso sẽ giải đáp thắc mắc này cho bạn một cách chi tiết nhất qua bài phân tích bên dưới, mời bạn tham khảo.
Các loại hình xổ số hiện nay
Hiện nay, tại Việt Nam có 02 hình thức xổ số được nhà nước cấp phép đó chính là Xổ số truyền thống và Xổ số điện toán (Vietlott).
Điểm chung là cả 2 hình thức xổ số này đều hướng đến việc đóng góp một phần lợi nhuận để xây dựng các hoạt động, các công trình công ích cho đất nước.
Điểm khác biệt là hình thức xổ số truyền thống đã có mặt từ lâu đời còn xổ số điện toán (Vietlott) thì chỉ mới xuất hiện vài năm gần đây.
Ngoài ra, cách thức chơi, giải thưởng của 2 hình thức này có sự khác biệt khá lớn nên xác suất trúng thưởng của chúng cũng sẽ khác nhau.
Cách tính xác suất trúng xổ số truyền thống
Làm sao để trúng số? Việc biết được xác xuất trúng xổ số kiến thiết giải độc đắc sẽ giúp cho bạn dễ dàng hơn trong việc đưa ra chiến lượt để đạt được mục tiêu của mình.
Theo những chuyên gia hàng đầu cho hay: Với 1 triệu vé số phát hành thì sẽ có được 1 vé trúng giải độc đắc có giá trị 2 tỷ đồng (tỷ lệ 1/1.000.000).
Tuy tỷ lệ khá khó trúng nhưng vẫn cao hơn so với xổ số Vietlott. Chính vì thế người chơi vẫn có thể đặt niềm tin trúng số vào xổ số truyền thống nhiều hơn.
Không những thế, bài viết hướng dẫn 9 cách mua vé số trúng độc đắc cũng sẽ không làm bạn thất vọng.
Cách tính xác suất trúng số Vietlott
Tỷ lệ trúng thưởng thấp hơn xổ số truyền thống đồng nghĩa với việc giá trị tiền thưởng chắc chắn sẽ cao hơn rất nhiều. Nhiều người chơi suy nghĩ rằng tham gia xổ số vietlott rất khó trúng thì có thể tham gia mua vé số truyền thống để chờ đợi cơ hội.
Nhiều người cho rằng Vietlott lừa đảo ? Chơi hoài mà không trúng? Có thật không?
Nhưng cũng có rất nhiều người cho rằng nếu trúng số vietlott chỉ một lần là hoàn toàn có thể thay đổi cuộc sống với giá trị tiền thưởng vô cùng “khủng” lên đến hàng trăm Tỷ đồng.
Tỷ lệ trúng số đặc biệt của Vietlott là 1/8.000.000 (gấp 8 lần XSKT truyền thống) vì người chơi cần chọn 6 cặp số từ 01 – 99 và phải trùng khớp với toàn bộ 6 cặp số của kết quả xổ số thì mới được trúng giải đặc biệt.
Điều này đồng nghĩa với việc toàn bộ người dân chúng tôi đều đồng loạt mua vé Vietlott thì mới chắc chắn có được 01 người trúng giải.
Để đi sâu hơn cho bạn đọc dễ hiểu hơn vì sao lại tính được tỷ lệ trúng trên, tôi sẽ phân tích cho anh em 2 loại hình xổ số Vietlott được nhiều người chơi nhất đó chính là Power 6/55 và Mega 6/45.
Xác suất trúng Vietlott Power 6/55
Đây là hình thức chơi xổ số mà người chơi cần lựa chọn cho mình một bộ số gồm 6 con số, mỗi con số sẽ trong khoảng từ 01 – 55 và các số được chọn không được trùng nhau.
Ví dụ dãy số chọn hợp lệ:
Dò với kết quả quay số để biết mình có trúng thưởng hay không. Lưu ý là các dãy số này không cần phải theo thứ tự, chỉ cần 6 bộ số trùng với 6 bộ trong kết quả mở thưởng thì bạn sẽ thắng.
Công thức tính tỷ lệ trúng Power 6/55
Chú thích:
f là dãy số được chọn, ví dụ: Số 55.
Ví dụ thực tế cho anh em trường hợp như trên:
Bảng thống kê tỷ lệ trúng Vietlott Power 6/55:
Tuy tỷ lệ trúng của Power 6/55 là vô cùng thấp nhưng đổi lại là phần thưởng của nó vô cùng “khủng” lên đến 30 Tỷ đồng (gấp 30 lần so với giải đặc biệt của xổ số kiến thiết Miền Bắc và 15 lần so với xổ số Miền Nam – Miền Trung).
Tuy nhiên, cách chơi này không chỉ có 01 giải thưởng mà còn có nhiều giải thưởng khác cho người chơi có nhiều cơ hội trúng hơn như jackpot 2 (3 Tỷ đồng) và hàng nghìn các giải nhất, giải nhì, giải ba,…
Xác suất trúng Vietlott Mega 6/45
Tương tự như cách chơi của Power 6/55 thì để tham gia loại hình xổ số này người chơi cần chọn cho mình 01 bộ số gồm 6 con số trong khoảng từ 01 – 45.
Cũng lưu ý là các con số được chọn trong bộ 6 số không được trùng nhau.
Công thức tính tỷ lệ trúng Mega 6/45
Tỷ lệ trúng Mega 6/45 = 1/C(n,k).
Với:
C là tổ hợp của bộ số.
n là số tổng của lượng số.
k là số được chọn để tham gia.
Bảng thống kê tỷ lệ trúng Vietlott Mega 6/45 như sau:
Kết luận
Nếu như trước đây bạn chưa từng biết qua tỷ lệ, xác suất trúng của các loại xổ số này là bao nhiêu thì bây giờ khi đã hiểu về vấn đề này, bạn sẽ có thể lựa chọn cho mình một chiến lược chơi cho phù hợp nhất.
Còn nếu như bạn đã biết xác suất trúng là bao nhiêu rồi nhưng không hiểu lý do tại sao, công thức gì để có được con số đó thì bài phân tích trên cũng đã giúp được cho bạn giải quyết vấn đề thắc mắc này.
Nên Chọn Mua Sáo Nứa Bắc, Sáo Nứa Nam Hay Sáo Trúc
Nên chọn mua sáo trúc, sáo nứa Bắc, sáo nứa Nam hay sáo gỗ, sáo nhựa,…
Về hình thức các loại:
Sáo Nứa Nam thường có màu trắng vàng sáng và đều màu, thường dài và thường dày hơn sáo nứa Bắc 1 chút.
Sáo Nứa Bắc thường có màu sẩm hơn và có nhiều viết loang. Sáo nứa Bắc thường bị ngắn và mỏng hơn sáo nứa Nam và sáo trúc.
Sáo trúc có các đốt ngắn và mắt trúc. Màu vỏ trúc có thể trắng vàng, hoặc hơi sẩm, nâu (hun khói) và cũng có thể có vết loang hoặc có thể là trúc tím màu đen.
Sáo nứa Nam dẻo gần bằng trúc, nhưng thớ nứa không mịn như thớ trúc, nhìn qua thớ thấy sáo nứa Nam có thớ hơi xác, khi khoét cũng không mịn dao như sáo nứa Bắc và trúc. Vậy nên, sáo nứa Nam thường được đánh giá âm thua sáo nứa Bắc ở tone trung và cao và thua sáo trúc ở tone trầm. Lòng trong của sáo nứa Nam thường có lớp màng mềm và phản xạ âm kém, nên âm sáo nứa Nam thường kém vang hơn.
Sáo nứa Bắc thường có độ đàn hồi, phản xạ âm cao nhất, nên sáo nứa Bắc rất tốt để làm sáo, đặc biệt là sáo tone trung và tone cao như sáo Đô C5, sáo Si B4 hay sáo Rê cao D5, … Sáo nứa Bắc có âm vang, ấm, đầm tiếng, lên nốt cao dể và tiếng sáo sắc sảo. Sáo nứa Bắc được đánh giá là tốt nhất cho âm thanh của sáo. Tuy nhiên, nứa Bắc hiện đang khan hiếm và đặc biệt rất hiếm nứa Bắc để làm sáo tone trầm.
Sáo trúc thường dày và thớ trúc nhỏ mịn, trúc dẻo hơn và có độ đàn hồi, phản xạ âm không cao bằng nứa. Do vậy, trúc thích hợp hơn để làm sáo tone trầm như sol trầm G4 hoặc Fa trầm F4 hoặc làm tiêu bởi trúc dày và đường kính lòng thường to hơn nên dể chọn để làm sáo tone trầm hơn. Sáo trúc cho âm êm và nhẹ nhưng hơi kém vang 1 chút. Sáo trúc thường bị lệch quảng nhẹ vì lòng trúc không đều do các mắt trúc. Do vậy, cần xử lý kỹ lòng trong của trúc trước khi làm sáo và tấc nhiên là không thể xử lý được 100%.
Về sáo nhựa, sáo kim loại, sáo inox, sáo nhôm thì âm sẽ không bằng sáo trúc nứa được (nếu nhựa cao cấp thì âm có thể vang và trong nhưng không được êm và ngọt như trúc nứa hay gỗ được). Sáo gỗ thì còn tùy loại gỗ và độ già, …và hiện không phổ biến, chi phí chế tạo cao, ít người sử dụng nên mình không đề cập đến.
Trúc nứa loại nào, vùng nào cũng tùy từng cây, tùy vào độ dày, độ già, hay độ chắc. Những điều đó chịu ảnh hưởng bởi môi trường (đất, nước, ánh sáng,…) nơi cây trúc cây nứa mọc. Tuy vậy, nứa trúc của mỗi vùng cũng có những đặc điểm riêng biệt và nó ảnh hưởng đến âm thanh của cây sáo khi chế tạo thành phẩm.
Trúc nứa càng già, càng mọc ở vùng núi cao hơn, khô cằn hơn thì càng chắc hơn, càng đanh hơn.
Trúc nứa càng dày thì âm càng bí nhưng sẽ dày tiếng hơn.
Trúc nứa càng mỏng thì âm sẽ càng vang và càng dễ lên cao hơn.
Trúc nứa càng khô thì âm sẽ càng vang và đầm tiếng hơn.
Trúc nứa xử lý lòng càng tốt thì âm càng hay.
Để có sáo âm thanh hay, nguyên liệu làm sáo phải có độ cứng, độ đanh, độ đàn hồi, độ dày, kích thước lòng phù hợp và lòng trong của trúc nứa phải được xử lý nhẵn.
Nếu chọn nứa Bắc bạn có thể chọn cây nứa dày hay mỏng vì mỗi cái đều có màu âm riêng và không nên chọn sáo nứa Bắc già quá, đanh quá thì âm sẽ không được mềm mại.
Nếu chọn sáo nứa Nam bạn nên chọn những cây nứa già, đanh nhất có thể, và nếu có lớp màng có thể xử lý bớt đi để tiếng sáo đầm vang hơn.
Nếu chọn sáo trúc, bạn cần chọn những cây trúc già và có độ dày phù hợp theo tone (vì trúc thường bị dày quá). Nếu chọn được cây sáo trúc già và không bị dày quá, thì sáo trúc tone trung và tone cao như Si B4, Đô C5, Rê D5 âm sẽ rất hay, vừa trong, vang lại vừa êm dịu. Hơn nữa, phải xử lý lòng trong của trúc tốt, đánh phẳng các mắt trúc bên trong lòng ống để tránh việc bí âm, lệch quảng. Và ngoài ra, trúc có nhiều nhựa hơn nứa và dày lại có mắt trúc nên trúc rất lâu khô.
Sáo nứa Nam thường dày nên cũng đở dập vỡ và cũng đở nứt hơn do sáo nứa Nam dẻo hơn sáo nứa Bắc. Sáo nứa Nam cũng dẻo nên dể uốn hơn và đở bị cong lại.
Sáo nứa Bắc thường mỏng nhất nên dể bị dập vỡ, đở nứt hơn sáo trúc nhưng lại dể bị nứt hơn so với sáo nứa Nam.
Sáo trúc thường bền lực khó bị dập vỡ (vì trúc dày và có mắt trúc cứng) nhưng lại dể nứt hơn do hanh khô, thay đổi nhiệt độ đột ngột. Trúc dẻo nên dể uốn và đở bị cong lại sau thời gian sử dụng.
Do vậy:
Về các đặc tính, độ bền của sáo trúc, sáo nứa Bắc và sáo nứa Nam.
…
Bạn đang đọc nội dung bài viết Diều Sáo Việt Nam Truyền Thống Và Hiện Đại trên website Ngubao.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!