Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Ở Việt Nam # Top 3 Like | Ngubao.com

Đề Xuất 3/2023 # Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Ở Việt Nam # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Ở Việt Nam mới nhất trên website Ngubao.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thực trạng ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại vào phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Khoa học – công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu của khoa học, công nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu sản xuất, trước hết là cải biến những công cụ lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.

Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khối lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Cũng nhờ sự phát triển của công cụ sản xuất, nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấu kinh tế. Trong những năm gần đây, tỉ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh hơn so với các ngành nông nghiệp. Từ một nước thuần nông, Việt Nam đã xây dựng được nhiều nhà máy, xí nghiệp có những dây chuyền công nghệ tiến tiến; nhiều khu chế xuất công nghệ cao. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia khác trên khu vực và trên thế giới, là một nước đi sau nên nhìn chung nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, những ngành công nghiệp chế tạo chưa thực sự phát triển, mới phát triển những ngành công nghiệp lắp ráp theo dây chuyền công nghệ của nước ngoài, mức độ hiện đại hóa trong các ngành công nghiệp chưa đồng đều giữa các ngành và giữa các địa phương trong cả nước, tính cạnh tranh của các mặt hàng sản xuất công nghiệp nhìn chung còn thấp nên giá thành không cao, nhất là những ngành vốn là thế mạnh của nước ta như dệt may, da giày, khoáng sản…

Theo Báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng thứ 71/143 nước, đứng thứ 4 trong số các nước thuộc khối ASEAN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa và tin học hóa của nhiều ngành kinh tế nhìn chung còn nhiều hạn chế. Theo điều tra các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, chế tạo năm 2015, khoảng 57% doanh nghiệp có công nghệ thấp, 31% doanh nghiệp có công nghệ trung bình, 12% doanh nghiệp có công nghệ cao. Trong khi các nước trong khu vực đều có tỷ trọng đầu tư cao cho khoa học, công nghệ trong sản xuất thì mức đầu tư của Việt Nam còn khá khiêm tốn: từ năm 2006 – 2016, tỷ lệ đầu tư cho khoa học, công nghệ mới chỉ chiếm khoảng 0,6% GDP. Trong vòng 10 năm, tỷ lệ này chỉ tăng từ 0,48% GDP lên 0,51% GDP. Bởi vậy, qua hơn 30 năm đổi mới, nền công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở trình độ gia công.

Thực trạng kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Ngoài việc ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại vào sản xuất, cải tiến công cụ lao động và mở rộng đối tượng lao động; các phương tiện lao động của nước ta cũng có những bước phát triển đáng kể. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua sự phát triển của kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất. Kết cấu hạ tầng chính là cái “cốt vật chất” của các lĩnh vực kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng không chỉ giúp cho việc lưu thông hàng hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển.

Hiện nay, ở nước ta đã hình thành được hầu hết các trục đường bộ từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, không chỉ nối liền các vùng kinh tế trong cả nước mà còn đảm bảo thông thương với các nước láng giềng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhiều tuyến đường cao tốc từ các tỉnh, thành phố trung tâm đã được xây dựng như Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu, Đà Nẵng – Dung Quất… làm giảm đáng kể thời gian vận chuyển, lưu thông hàng hóa từ 30-50%. Hơn nữa, nhiều cây cầu đã được xây dựng như cầu Cần Thơ, cầu Nhật Tân, cầu Thanh Trì… góp phần quan trọng trong việc hiện đại hóa nền kinh tế đất nước.

Về giao thông đường biển, nước ta có 49 cảng biển, 166 bến cảng, 350 cầu cảng, năng lực thông quan khoảng 350-370 triệu tấn/năm. Đặc biệt, quá trình vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa cũng đã được hiện đại hóa đáng kể bằng việc thay thế sức lao động của con người thành những máy móc, cẩu nâng tự động hóa. Điều đó góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của các ngành kinh tế biển ở nước ta.

Về giao thông đường không, Việt Nam đang đưa vào khai thác 21 sân bay, trong đó có 10 cảng hàng không quốc tế, số lượng hành khách tăng mạnh từ 4,9 triệu khách năm 2000 lên đến 56,8 triệu khách năm 2014. Như vậy, chỉ chưa đến 15 năm, số lượng hành khách đã tăng lên hơn 10 lần. Giao thông hàng không cũng góp phần quan trọng trong việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa giữa các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước và với các nước khác trên thế giới.

Về giao thông đường sắt, mạng lưới đường sắt của nước ta có tổng chiều dài là 3.143 km, trong đó có 2.531 km tuyến chính, 612 km đường nhánh và đường ga. Giao thông đường sắt nước ta góp phần quan trọng trong việc vận chuyển hành khách và hàng hóa từ thủ độ Hà Nội đến các vùng trong cả nước.

Như vậy, hạ tầng giao thông của nước ta không chỉ đảm bảo sự lưu thông giữa các vùng kinh tế mà còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển và hội nhập quốc tế. Ngoài hạ tầng giao thông, hạ tầng thông tin, điện, nước… cũng có những bước tiến đáng kể, đảm bảo nhu cầu thông thông liên lạc, duy trì và phát triển sản xuất.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém như hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu tính đồng bộ và mất cân đối đáng kể giữa các vùng miền. Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các thành phố lớn như thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh khá hiện đại nhưng ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo còn lạc hậu, yếu kém, chất lượng hạn chế; công tác quản lý, khai thác và sử dụng dịch vụ hạ tầng còn nhiều bất cập. Vì vậy, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ được Đảng ta xác định là một trong những bước đột phá chiến lược trong việc phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói riêng.

Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Tính đến năm 2015, Việt Nam có dân số trên 93 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều giữa các vùng miền trong cả nước và có sự khác biệt lớn về trình độ theo vùng. Trong cơ cấu dân số Việt Nam, cư dân nông thôn chiếm khoảng 68% dân số. Trong số trên 93 triệu người, cả nước có 69,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có 53,7 triệu người tham gia vào lực lượng lao động, chiếm 77,7% dân số, trong đó 70,2% tập trung ở nông thôn. Hàng năm ở nước ta, trung bình có khoảng hơn 1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.

Hiện nay, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số trẻ, đang ở thời kỳ dân số vàng. Trong số 53,7 triệu lao động có đến 50,2% số người có độ tuổi từ 15 đến 39. Với nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát triển lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Nguồn lao động trẻ sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của khoa học, công nghệ vào sản xuất; thích ứng và bắt nhịp nhanh với quá trình sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, áp lực lớn và thích ứng được việc thay đổi nghề nghiệp, điều kiện làm việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất.

Theo số liệu thống kê năm 2015, trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số lao động trên cả nước, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ . Trong những năm gần đây, tỉ lệ lao động có trình độ đại học của lực lượng lao động trực tiếp không ngừng tăng lên. Năm 2012, trung bình cả nước có 4,7%, năm 2013 là 5,8%, đến năm 2014, tỷ lệ này là 6,2%. Sự tăng lên không ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại.

Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của người lao động nước ta hiện nay. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất những mặt hàng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Cũng với tính cần cù, chăm chỉ, ngày nay số lượng lao động Việt Nam làm việc trong các ngành công nghiệp lắp ráp công nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Sam Sung, Toyota, Deawoo… Các chủ đầu tư của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ lao động công nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

Tuy nhiên, do nền kinh tế phát triển của Việt Nam chưa thực sự phát triển nên việc đầu tư cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nhìn chung còn thấp. Hiện nay, chi tiêu của Chính phủ còn khá thấp so với nhu cầu khám chữa bệnh của người lao động: “Chi tiêu của chính phủ cho công tác chỉ tương đương với 2,8% GDP. Hơn 50% chi tiêu cho y tế chính là chi tiêu từ túi tiền của bệnh nhân. Chi tiêu công cho y tế chiếm khoảng 8,7% chi tiêu công ở Việt Nam so với mức 14,1% ở Thái Lan và 9,9% ở Trung Quốc”. Mức đầu tư cho công tác y tế còn thấp cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến việc khám chữa bệnh và công tác bảo hiểm y tế cho người lao động. Ngoài ra, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động cũng đang là một trong những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, thể lực của người lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp ở nước ta hiện nay.

Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại là tỉ lệ những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay có tay nghề, có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đa số nhưng ở Việt Nam hiện nay, mặc dù đã tăng lên đáng kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, tỷ lệ đó còn khá thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được tham gia xếp hạng; thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao, thiếu công nhân lành nghề; chỉ số Kinh tế Tri thức ( KEI) của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133 quốc gia được phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo nghề, năng suất lao động thấp. Đây là những thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi đáng kể như trình độ của tư liệu sản xuất, nhất là công cụ lao động được cải tiến; khoa học – công nghệ được ứng dụng nhiều vào sản xuất; trình độ, kỹ năng của người lao động không ngừng tăng lên nhưng so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê năm 2014, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo điều tra Lao động và Việc làm năm 2015, Hà Nội.

Về Mối Quan Hệ Giữa Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Và Xây Dựng, Hoàn Thiện Từng Bước Quan Hệ Sản Xuất Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam

Về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam

          

                                                    

      Hiện nay đang có một số quan điểm, nhận thức khác nhau về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thậm chí có những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng của quy luật cơ bản này. Việc nhận thức, vận dụng mối quan hệ này phù hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu vì “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người – quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Quy luật này do C. Mác phát hiện ra và đó là quy luật khách quan, cơ bản, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế – xã hội này lên hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn, quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.

Như chúng ta đã biết: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất, có tác động biện chứng với nhau một cách khách quan. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Về mặt khoa học cần nhận thức sự phù hợp một cách biện chứng, lịch sử – cụ thể, là một quá trình, trong trạng thái động. Lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn, thậm chí lạc hậu hơn. Do đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, đồng thời cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất.  Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội. Sự biến đổi, phát triển xã hội loài người, xét đến cùng là bắt nguồn từ quy luật này. Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người, tồn tại và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể. Vì vậy, việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói chung, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình thế giới.

         Ngược dòng thời gian, chúng ta thấy: Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nước Nga tuy đã trải qua giai đoạn phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản, trong thời kỳ nội chiến, chống thù trong giặc ngoài, V.I. Lê-nin và những người Bôn-sê-vích cũng đã tưởng rằng có thể áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến” để tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Song, cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội mùa xuân năm 1921 đã cho thấy đây là một sai lầm rất nghiêm trọng có hại cho sự phát triển của nước Nga. Nhận thức được vấn đề, V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là – có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng ta”(2). V.I. Lê-nin đã kịp thời phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ vì không sát thực tiễn trong việc vận dụng quy luật. Người đã quyết định chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP) thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực, khuyến khích phát triển quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ thị trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, tư bản tư nhân, chính sách tô nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản trong phát triển kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế phù hợp với thực tiễn của nước Nga.

Ở nước ta sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc 30/4/1975 đến trước thời kỳ đổi mới 1986, thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng chiến và kiến quốc, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả thấp. Do chưa nhận thức được hiện thực khách quan, nên không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ chế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá nhấn mạnh một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Khi xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Những hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức và vận dụng chưa đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đúng như văn kiện Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ:lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế – xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Phải giám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật là chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và làm cản trở bước tiến phát triển của đất nước. Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức tư duy lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Chính cuộc sống đã dạy cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật, hiện thực khách quan được.

Độ Tuổi Ngừng Phát Triển Chiều Cao Ở Nam&Amp;Nữ Là Bao Nhiêu ?

Thực tế, trẻ có 4 mốc phát triển chiều cao quan trọng đó là giai đoạn trong bào thai, giai đoạn từ 0 – 3 tuổi, giai đoạn từ 3 – 10 tuổi, giai đoạn dậy thì. Trong các giai đoạn này, giai đoạn nào cũng nắm giữ vai trò quan trọng, nếu như chúng ta bỏ qua các mốc quan trọng này tức là bạn đã bỏ lỡ một nền tảng vững chắc để trẻ tăng trưởng tốt về chiều cao.

Trong thời gian này, nếu mẹ ăn ngủ tốt, tinh thần thoải mái tăng từ 8 – 15kg thì con sinh ra có thể đạt chiều cao 50cm. Với mức chiều cao này, tương lai trẻ có thể cao khoảng 170cm, đây là mức chiều cao đáng mơ ước của người Việt.

Trong những năm đầu tiên, trẻ có thể tăng thêm 25cm và trong 2 năm tiếp theo, mỗi năm trẻ tăng thêm 10cm nữa nếu được chăm sóc tốt. Trong giai đoạn này, tổng chiều cao trẻ tăng lên đến 45cm chiếm khoảng 60% chiều cao trẻ đạt được trong tương lai.

Giai đoạn này, chiều cao ở bé nam và bé nữ đều tăng nhưng mức tăng chậm hơn 2 giai đoạn trước đó. Trung bình, mỗi năm trẻ tăng được khoảng 6 – 7cm. Giai đoạn này chính là bước đệm chuẩn bị cho giai đoạn phát triển chiều cao vô cùng mạnh mẽ – giai đoạn dậy thì.

Chính vì thế, trong suốt những năm dậy thì, các bậc phụ huynh cần phải xây dựng chế độ dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ, khuyến khích trẻ vận động, đi ngủ đúng giờ để trẻ đạt mức chiều cao tối ưu nhất.

Nếu các bậc phụ huynh đang có con trong giai đoạn phát triển chiều cao và muốn trẻ có thể đạt được mức chiều cao lý tưởng thì đừng bỏ lỡ những giai đoạn vàng nói trên để có kế hoạch giúp trẻ đạt được mức chiều cao tốt nhất.

Bảng chiều cao cân nặng chuẩn theo độ tuổi

Đối với mỗi giai đoạn phát triển trẻ sẽ có mức tăng trưởng chiều cao và cân nặng khác nhau và đặc biệt có sự khác nhau về giới tính. Mỗi giai đoạn phát triển từ khi lọt lòng cho tới khi 20 tuổi, tốc độ tăng trưởng về chiều cao và cân nặng của trẻ cũng khác nhau, khi tăng nhanh nhưng lúc lại tăng chậm. Cụ thể tham khảo theo tiêu chuẩn BMI của WHO như sau:

Chiều cao ngừng phát triển ở tuổi bao nhiêu

Sụn tiếp hợp là một loại sụn tăng trưởng, chịu trách nhiệm về sự phát triển chiều dài của xương. Sụn này gồm nhiều lớp. Khi trẻ đang ở độ tuổi dậy thì, các lớp sụn mới liên tục được sinh ra để thay thế những lớp cũ bị canxi hóa. Các lớp sụn bị canxi hóa sẽ bổ sung dần vào chiều dài của xương làm chiều cao của trẻ tăng trưởng.

Trên phim chụp X – quang, một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như cổ chân, chúng ta dễ dàng thấy được một khe hở mảnh ở đầu xương ống quyển, đó là sụn tiếp hợp. Sau 20 tuổi, việc hàn sụn tiếp hợp sẽ diễn ra, đánh dấu quá trình tăng trưởng chiều cao kết thúc, khi đó khi hở trên phim X – quang sẽ không còn nữa. Do đó, các biện pháp cải thiện chiều cao cần phải được thực hiện sớm khi trẻ còn non trẻ, trước và trong độ tuổi dậy thì.

Khẩu phần ăn của trẻ cần đảm bảo đầy đủ 4 nhóm dưỡng chất như đạm (chiếm 10 – 15%), tinh bột (chiếm khoảng 60%), chất béo (chiếm khoảng 10%) cùng vitamin và các chất khoáng khác. Nên cân bằng các nhóm thực phẩm, tránh tình trạng ăn quá nhiều hay quá ít một nhóm thực phẩm nào đó.

Các bậc phụ huynh nên chia nhỏ bữa ăn thành nhiều bữa nhỏ trong ngày, tuyệt đối không được bỏ bữa sáng để giúp cơ thể hấp thu tốt các nhóm chất dinh dưỡng, tác động lớn đến khả năng tăng trưởng chiều cao cho trẻ. Hơn nữa, để nâng cao tầm vóc cho trẻ, mẹ cần bổ sung nhiều các thực phẩm giàu canxi cho trẻ như sữa, các chế phẩm từ sữa, hải sản, rau xanh đậm, đậu nành, trứng…

Việc rèn luyện thể thao là yếu tố quan trọng không kém việc bổ sung dinh dưỡng. Muốn trẻ phát triển tốt, khỏe mạnh và có chiều cao như ý, các bậc phụ huynh nên tạo cho trẻ thói quen tập luyện thể thao ngay từ tuổi nhỏ với các bài tập giúp tăng chiều cao.

Khi trẻ luyện tập các bài tập nhảy cao, nhảy xa, đánh xà, bơi lội, bóng chuyền…sẽ giúp trẻ vươn dài người, kéo căng cơ, kích thích cột sống và hệ xương phát triển. Sự vận động cơ bắp sẽ kích thích, thúc đẩy quá trình chuyển hóa năng lượng, trao đổi chất, tăng cường lượng canxi vào mô xương giúp xương vững chắc và phát triển tốt hơn. Thời gian luyện tập với cường độ cao kéo dài từ 1 – 2 giờ có thể làm hormone tăng trưởng tăng lên gấp 3 lần.

Việc luyện tập thể thao cần được duy trì điều độ và tăng cường độ dần đều theo thời gian, nếu chỉ tập luyện nhẹ nhàng trong một thời gian ngắn hay luyện tập quá lâu thì cũng không thúc đẩy tăng chiều cao. Với những lợi ích từ việc luyện tập thể thao như vậy thì bố mẹ nên hướng dẫn và tạo cho trẻ thói quen luyện tập thể thao hằng ngày với những bài tập vừa sức, phù hợp với độ tuổi trẻ.

Thời kỳ công nghệ hiện đại ngày càng phát triển dẫn đến tình trạng trẻ lười vận động, chơi đùa, chạy nhảy, thay vào đó trẻ chỉ đam mê vào các trò chơi tiêu khiển như điện thoại, tivi, ipad. Điều này, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của hệ xương khớp cũng như hệ thần kinh của trẻ. Do đó, cha mẹ nên khuyến khích trẻ tham gia vào các môn thể thao và ngủ đủ giấc để trẻ phát triển tốt hơn.

Trong cuộc sống hiện nay để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đầy đủ cho cơ thể, bên cạnh lượng thức ăn hàng ngày bạn đọc cũng có thể tìm hiểu thêm về sản phẩm NuBest Tall – viên uống tăng chiều cao đến từ Mỹ để bổ sung dinh dưỡng, giúp phát triển chiều cao tốt nhất cho trẻ.

Làm Thế Nào Để Bé Phát Triển Chiều Cao Và Thể Lực

Trong đó, để đạt chiều cao cần thời gian dài theo quá trình và có phương pháp phù hợp và động bộ. Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của chiều cao, gồm yếu tố dinh dưỡng chiếm 32%, rèn luyện 20%, môi trường tâm lý xã hội chiếm 26%, còn lại thuộc vào di truyền. Việc kết hợp các yếu tố đó sẽ là lời giải đắt giá cho sự phát triển của xương và răng trẻ.Vậy làm thế nào để bé phát triển chiều cao và thể lực ?

Việc tập luyện kéo giãn từ sớm, đều đặn và đúng kỹ thuật sẽ giúp tăng chiều cao thêm 7,2cm. Những bài tập chuyên biệt nhằm cải thiện hệ xương, cột sống bên cạnh với phát triển cơ được nhiều bố mẹ áp dụng, trong đó nổi bật theo phong cách yoga.

Bên cạnh các môn thể thao giúp tăng chiều cao như bơi lội, điền kinh (nhảy cao, tập xà, bóng chuyền, đạp xe…..) Các môn thể thao giúp kich thích và kéo dài chiều cao một cách tự nhiên. Nên khuyến khích trẻ tập tối thiếu 30/ngày sẽ đem lại hiệu quả bất ngờ cho chiều cao cũng như sức khỏe của bé.

Bởi dinh dưỡng chiếm 32% chiều cao của con người nên việc tận dụng chế độ dinh dưỡng khoa học đầy đủ là điều quyết định. Sử dụng kết hợp với sản phẩm hỗ trợ phát triển chiều cao sẽ giúp con bạn cao thêm từ 4,9 đến 7,3cm.

Để đạt được hiệu quả tốt nhất nên lựa chọn sản phẩm đa dạng khoáng chất cần thiết cho xương như canxi, kẽm thêm Vitamin D3 giúp hấp thụ canxi tốt hơn. Sử dụng canxi dạng nano giúp hấp thụ cũng như phòng ngừa táo bón. Đồng thời, bổ sung MK7 (Vitamin K2) giúp đưa canxi đến nơi cần thiết đó là máu và xương, loại bỏ canxi ra khỏi chỗ nguy hiểm đó là thành mạch máu, mô mềm. Lựa chọn bổ sung dạng cốm hoặc viên uống với từng độ tuổi phù hợp giúp trẻ tăng chiều cao tối đa.

Kích thích hormone tăng trưởng tự nhiên

Hormone tăng trưởng của con người giúp phát triển chiều cao tối đa. Đây chính là biện pháp an toàn và hiệu quả. Hormone tăng trưởng này được tiết ra khi trẻ đạt giấc ngủ ngon và sâu đủ giấc, đặc biệt là từ 21 đến 22 giờ đêm. Ngoài ra, tinh thần thoải mái và vui vẻ cũng giúp kich thích hormone tăng trưởng nhờ đó giúp trẻ phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phát Triển Lực Lượng Sản Xuất Ở Việt Nam trên website Ngubao.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!