Một người tập… hai người vui
Người đàn ông 38 tuổi, dong dỏng cao, điển trai tên T. mà tôi gặp tại Y võ Thiên Phúc cởi mở “khoe” rằng: Nhờ tập luyện phương pháp “bế tinh hoàn não” hàng ngày, do võ sư Nguyễn Khắc Chương truyền dạy, nay anh có thể tự hào về “bản lĩnh đàn ông” của mình. Người đàn ông lập gia đình có cậu con trai 13 tuổi này bộc bạch thêm: Trước đây vấn đề sinh lý của anh thuộc dạng bình thường, không yếu nhưng cũng chẳng khoẻ. Tuy vậy, anh luôn cảm thấy mình là người có lỗi, vì rất hiếm khi có thể đưa “nửa thứ hai” đạt tới đỉnh điểm trong những lần quan hệ. Mặc dù, sức khoẻ của anh được xếp vào loại A, không hề mắc chứng bệnh nào.
Một cơ duyên đưa anh trở thành học trò của võ sư Nguyễn Khắc Chương. Hiểu được “tâm tư” của anh, võ sư đã truyền dạy phương pháp “bế tinh hoàn não”. Khi đã tập luyện thành thục những “bài” thầy dạy, cũng là lúc anh nhận ra trong con người mình có những biến chuyển rõ rệt. Mỗi lần quan hệ, anh thấy vấn đề sinh lý của mình cải thiện trông thấy như thời gian quan hệ lâu hơn, việc “xuất binh” ít tinh dịch hơn. Trước đây, sau mỗi lần “quan hệ” xong, anh thường cảm thấy hơi đau lưng, và “xong việc” thường muốn lăn ra ngủ. Nay, “xong việc” anh thấy tinh thần khoan khoái, muốn được tiếp tục âu yếm, trò chuyện với bạn đời. Điều anh cảm nhận rất rõ nữa, mỗi lần quan hệ “nửa thứ hai” đều được “lên đỉnh”.
Người đàn ông ngoài tuổi 50, là giám đốc một doanh nghiệp tư nhân, đến Y võ Thiên Phúc (số 5, ngách 7, ngõ 409 Đường An Dương Vương, quận Tây Hồ, Hà Nội) trong tình trạng thường xuyên đau lưng, mỏi gối, mắc tiểu đêm. Võ sư Nguyễn Khắc Chương chẩn bệnh, đây là chứng bệnh của thận kém. Một liệu trình đưa ra, ngoài đắp thuốc Nam chữa đau lưng, uống thuốc bổ dương, kèm theo là những bài tập luyện khí công theo hướng dẫn của các võ sư. Người đàn ông chăm chỉ uống thuốc đều đặn, cùng với tập luyện khí công kiên trì, đúng phương pháp, sau hai tháng, ông mừng ra mặt, bởi không những hết chứng đau lưng, mỏi gối, mà còn thấy khoẻ hơn trong “chuyện ấy”. Giờ đây, không phải đến Y võ Thiên Phúc chữa bệnh, vị giám đốc hàng ngày vẫn luyện tập những bài tập các võ sư truyền đạt. Ông cho biết, sinh hoạt vợ chồng tuy “thưa thớt” hơn ngày trước do tuổi tác, song chưa khi nào ông thấy bà xã hài lòng như thời gian này. Ông nói: “Đã có lần, vợ tôi thốt lên, ông đang dùng Viagra đấy à?”.
Phương pháp “bế tinh hoàn não”
Võ sư Nguyễn Khắc Chương mở đầu câu chuyện, nguyên nhân gây yếu sinh lý cho nam giới là do thiếu testosterone, do tổn thương thực thể ở thận, do bộ phận sinh dục nam bị viêm nhiễm, hay mắc bệnh phì đại tiền liệt tuyến, do stress, suy nhược cơ thể, tinh thần bất an… Ngoài ra, còn do nam giới “động dục” quá sớm như xem nhiều phim sex khi tuổi đời còn quá non trẻ, dẫn đến thường xuyên học theo phim thủ dâm lâu ngày mà dễ mắc các chứng “xuất binh” sớm, di tinh, mộng tinh… Nguyên nhân nữa là do “phạm luật”, đó là quan hệ lúc uống rượu say, quan hệ quá độ, quan hệ lúc bạn tình không hứng khởi, hoặc quan hệ không đúng cách (như sau ăn no quá, hay vừa mới ốm dậy, hoặc trong những ngày kỵ mồng một, ngày rằm hàng tháng, giữa thời tiết mưa giông, sớm chớp…). Những nguyên nhân này, khiến nam giới mất phong độ. Ngoài ra gây cho người đàn ông chứng tiểu đêm, tiểu buốt, hoặc nóng rát đường tiết niệu. Bị nặng sẽ mắc chứng di tinh, mộng tinh.
Võ sư Nguyễn Khắc Chương dẫn lời Đại danh y Tuệ Tĩnh: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần/ Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”. Tinh (tinh dịch) của người đàn ông vô cùng quý giá, nó được ví như đốm lửa sưởi ấm cơ thể người đàn ông. “Đốt tinh (tinh dịch) thì hoá khí (khí huyết). Đốt khí thì hoá thần (tinh thần). Đốt thần thì hoá hư (thiên tuệ của con người” – võ sư lí giải. Chính vì vậy, việc tập luyện sẽ giúp các quá trình tích luỹ, chuyển hoá trong cơ thể được tốt hơn. Phương pháp “hoàn tinh bổ não”, hay pháp bế tinh, theo võ sư giúp khi quan hệ mọi thứ vẫn bình thường, người đàn ông vẫn đạt đến khoái cảm, tinh dịch vẫn “sôi lên” khi đạt đến đỉnh điểm, chỉ khác một điều: nam giới làm chủ được quá trình “xuất binh”.
Bài thuốc một đêm ‘yêu’ 6 lần sinh 5 con trai
Bài thuốc được cho là của vua Minh Mạng từng sử dụng, phục vụ cho việc phòng the với những công hiệu thần kỳ.
Lâu nay, dân gian vẫn truyền tụng về toa thuốc bổ có tên là Minh Mạng thang (thuốc của vua Minh Mạng dùng) có khả năng tăng cường sinh lực với những cái tên hấp dẫn như “nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” (một đêm quan hệ 6 lần, sinh 5 con trai) và “nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử” (một đêm quan hệ 5 lần sinh 4 con trai).
Nếu như trong thần thoại Hy Lạp có vị thần Hercule, một đêm quan hệ với 50 phụ nữ và có đến… 49 cô thụ thai thì ở Việt Nam có vua Minh Mạng cũng không kém mấy với tương truyền một đêm quan hệ đến… 6 lần và sinh 5 con trai. Tương truyền, điều làm nên khả năng thần kỳ ấy của vua Minh Mạng chính là bài thuốc có tên Minh Mạng thang do Thái y viện triều Nguyễn điều chế.
Theo nhà nghiên cứu Huế – ông Phan Thuận An, trong số 13 đời vua nhà Nguyễn thì chỉ có 2 vị vua tỏ ra quan tâm nhiều nhất đến tổ chức, hoạt động và hiệu quả của Thái y viện, đó là vua Minh Mạng (trị vì từ 1820-1840) và vua Tự Đức (trị vì 1847-1883).
Hai vua đều có lý do khác nhau, trong đó vua Tự Đức quan tâm vì thể chất đau yếu bẩm sinh, tai biến của bệnh đậu mùa biến chứng dẫn đến “bất lực”, rất muốn có con để truyền ngôi. Còn vua Minh Mạng thì lại khác. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, nhà vua chính thức có 43 phi tần. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai biết vua Minh Mạng có bao nhiêu cung nữ, vì sử sách không ghi rõ.
Bộ Minh Mạng chính yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn chỉ tiết lộ, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ sáu (tháng 2/1825) trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua thấy hạn làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: “2-3 năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ xem vì đâu mà thế, nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, có lẽ trong thâm cung, cung nữ nhiều nên âm khí uất tắc mà nên vậy ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có thể trừ thiên tai vậy”. Con số bớt đi mà đã tới 100 cung nữ, vậy số còn lại trong cung chắc hẳn phải là vài trăm trở lên.
Trong cuốn “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” do Nguyễn Viết Kế sưu soạn viết: “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: một bà vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này”. Từ những so sánh ấy mà người ta đã suy diễn ra rằng nhà vua cần tăng lực để thỏa mãn thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong cung.
Cũng theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tương truyền một số lương y hiện nay ở Huế có nghe các vị ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh Mạng đã phí sức lực vào việc giới tính từ rất sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử.
Một thời gian trước khi lên ngôi (năm 1820, vua 29 tuổi), ông đã rất yếu về đường sinh dục. Cho nên sau khi đăng quang, vua đã ra lệnh cho các quan ngự y phải cố gắng giúp mình lấy lại sức khỏe. Do đó, các ngự y đã làm ra thang thuốc bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hằng ngày và thang thuốc này rất hiệu nghiệm. Các bài thuốc đó, ngày nay còn lưu truyền với tên gọi “Minh Mạng thang” gồm 20 bài (có tài liệu ghi 24 bài).
Trong đó, hai bài nổi tiếng nhất, được các thầy thuốc dùng chữa bệnh nhiều nhất hiện nay là “nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” (một đêm quan hệ 6 lần, sinh 5 con trai) và “nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử” (một đêm quan hệ 5 lần, sinh 4 con trai). Và hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể đó là về mặt sinh lý, nhà vua đã sinh được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Hiệu nghiệm thứ hai đó là về mặt tinh thần, trí tuệ.
Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, từ trước năm 1975, trên một số báo chí, sách đông y và y học dân tộc ở miền Nam đã xuất hiện các công bố về toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Nhật báo Sống (Sài Gòn) số ra ngày 27/4/1968 đã đăng một toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử với 25 vị thuốc bắc.
Đến năm 1987, lương y Lê Văn Sơn, với sự trợ giúp của lương y Bùi Văn Nông, thuộc Tổ chẩn trị y học dân tộc -Trạm y tế Tân Đông Hiệp và Tân Bình (Thuận An, Sông Bé) đã xuất bản ấn phẩm (lưu hành nội bộ) “Những phương thuốc bổ và trường xuân”, trích dịch từ sách “Vạn bệnh hồi xuân”. Trong ấn phẩm này có giới thiệu một bài thuốc với tiêu đề Toa rượu bổ của vua Minh Mạng dùng.
Theo đó, bài thuốc gồm 22 vị, có hướng dẫn cách ngâm rượu và cách dùng cũng như mô tả 6 công dụng đặc biệt: đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, bồi bổ thần kinh; ngăn ngừa bệnh tật, trị khỏi đau lưng, nhức mỏi và bồi bổ cho sản phụ; người liệt dương (uống từ 1-2 tháng có thể có con); người khản tiếng, nói không to, uống thuốc nói được to tiếng; thận yếu lâu, bán thân bất toại, đi đứng không được, uống thuốc rượu này rất tốt; người gần chết, uống vào có thể sống lại 3 ngày nữa; già lão 60 tuổi, uống vào tăng tuổi thọ rất nhiều, đêm ngủ không mộng mị, không bị táo bón.’
Từ những bài thuốc được công bố này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã đối chiếu với các tư liệu lịch sử ghi chép về vua Minh Mạng để thực hiện bài viết Toa thuốc bổ Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử của vua Minh Mạng đăng trên tạp chí Sông Hương số xuân Tân Mùi (1991). Vì công hiệu của toa thuốc mà nhà vua đã dùng ấy, các quan lớn trong triều đã “phạm thượng” bí mật sao chép mang về để dùng, rồi sau đó lan truyền trong dân gian.
Thêm một cứ liệu nữa khiến người ta quy kết những toa thuốc có tên Nhất dạ lục giao là toa thuốc của vua Minh Mạng, bởi vì tương truyền, chính vua Minh Mạng từng có thơ nhắc đến việc “nhất dạ lục giao tam hữu dựng” (một đêm 6 lần giao hợp, 3 lần có con). Câu thơ này được tác giả Phạm Khắc Hòe – Ngự tiền Văn phòng Đổng lý thời vua Bảo Đại chép trong sách Kể chuyện vua quan triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa xuất bản năm 1990).
Từ câu thơ này mà nhiều người cho rằng chính những bài thuốc lưu truyền trong dân gian với tên gọi như: Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng, Ngũ giao tam dựng… là toa thuốc của vua Minh Mạng dùng.
Theo Lao Động
Thứ Năm, 25/07/2013
Lương y Phạm Giao chữa bệnh tác động cột sống
– Quen biết lương y Phạm Giao chừng vài năm, mãi sau này tôi mới biết, ông là con trai trưởng của cụ Phạm Thị Tề, chủ nhân ngôi nhà vườn cổ nổi tiếng, duy nhất còn lại giữa lòng phố cổ Hà Nội, từng được các chuyên gia Nhật Bản giới thiệu trong cuốn sách: “The 36 Guild streets”area Hanoi’s Ancient Quarter”.
Gia đình ông Phạm Giao, xuất thân từ làng Châu Khê (tỉnh Hải Hưng cũ) lên Hà thành sinh cư lập nghiệp mang theo nghề lọc vàng lá hiệu “Sư tử” gia truyền, song như một cơ duyên, ông rẽ lối theo nghề y.
Kỹ sư điện theo học nghề y
Căn phòng nhỏ, nơi ông Phạm Giao chữa bệnh bằng tác động cột sống, nằm trong khu nhà vườn cổ (số 115 trên phố Hàng Bạc, cổng sau là số 6 Đinh Liệt, Hà Nội). Bạn bè đến, ông thường dẫn dạo quanh ngôi nhà vườn, giới thiệu trong niềm tự hào về nơi còn lưu dấu hồn phách của kiến trúc nhà cổ, gắn với nếp sống của một gia đình đậm chất Hà thành này. Khác xa với sự ồn ào, náo nhiệt của phố xá bên ngoài, đi vào ngôi nhà vườn là một không gian tĩnh lặng, yên bình với không gian xanh mát của những hàng cau cao vút, cây móng rồng, tre đằng ngà, hay trúc quân tử.
Mẹ ông, cụ Phạm Thị Tề – chủ ngôi nhà vườn cổ năm nay cũng gần tròn tuổi 100, nhưng trông cụ dáng vẻ còn khỏe mạnh và minh mẫn. Ngôi nhà vườn từng chứng kiến biết bao biến đổi, thăng trầm của thời cuộc, tính đến nay đã có 5 thế hệ con cháu cụ Tề quây quần ở số 6 Đinh Liệt này. Trong 8 người con của cụ Tề, trừ người con trai út sống ở TP Hồ Chí Minh, 7 cặp dâu rể (đều đã lên tuổi ông bà) hiện cùng sinh sống trong ngôi nhà vườn này. Thế hệ cháu (đã lập gia đình) và chắt (trong đó có chắt đã 29 tuổi) của cụ Tề thì chuyển đến nơi ở mới. Ngôi nhà vườn gồm 16 phòng, cụ Tề chia cho mỗi cặp vợ chồng con cái 2 phòng, riêng người con trai trưởng – ông Phạm Giao được 3 phòng. Trong gia đình cụ, các con vẫn luôn giữ lề lối gia đình nề nếp, nho nhã, ăn ở kính trên nhường dưới.
Ông Phạm Giao cho biết, vào khoảng năm 1890, khi bắt đầu hình thành phố nghề vàng bạc Hàng Bạc thì gia đình cụ thân sinh của ông từ làng Châu Khê (của tỉnh Hải Hưng cũ) lên Hà thành sinh cư lập nghiệp mang theo nghề lọc vàng lá hiệu “Sư tử” gia truyền. Và vào năm 1945, bố mẹ ông mua ngôi nhà vườn trong khu đất rộng 560m vuông, xuyên hai mặt phố Đinh Liệt và Hàng Bạc. Sau năm 1954, đại gia đình ông không ai theo nghề lọc vàng nữa, các thành viên trong nhà chuyển sang làm nhiều công việc khác nhau.
Người em gái thứ ba của ông – bà Nguyệt Nga là họa sỹ, chuyên vẽ tranh về sinh hoạt người Tràng An trong khu phố cổ và phong cảnh Hà Nội. Bà Kim Loan làm nghề sang sợi thủ công, bà Lan Hương theo nghề thêu. Ông Phạm Giao thì theo nghề Đông y, với bài thuốc bí truyền chữa các bệnh cột sống, kết hợp phương pháp tác động cột sống mà ông theo học được từ cố lương y Nguyễn Tham Tán – từng công tác tại khoa Đông y Bệnh viện Bạch Mai và lương y Nguyễn Dư Chấn (Bµi thuèc gia truyÒn cña thÇy D ChÊn chñ yÕu ch÷a tho¸i ho¸ cét sèng). Tốt nghiệp kỹ sư điện Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1960, nhưng khi nghe danh lương y Nguyễn Tham Tán chữa bệnh bằng tác động cột sống, từ năm 1976 ông Phạm Giao đã tìm lên tận Phú Thọ – quê cụ để theo học bằng được phương pháp chữa bệnh này.
Gặp thầy, gặp thuốc
Phương pháp tác động cột sống của Thầy Tham Tán
Nói về người Thầy của mình, ông Phạm Giao cho biết, lương y Nguyễn Tham Tán là người xã Hoàng Xá (huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ), nếu còn sống năm nay cụ lên tuổi chín mươi sáu (cụ sinh năm 1915). Là một thầy thuốc Đông y, cụ rất coi trọng những bài thuốc quý trong dân gian, những kinh nghiệm chữa bệnh quý trong nhân dân (cho dù những kinh nghiệm đó chưa lý giải được bằng lý luận của Đông, Tây y lúc bấy giờ). Thời ấy ở quê cụ Tán mỗi khi trong gia đình ai đó có người bị đau bụng, người nhà thường chỉ việc lẳng lặng đến chỗ chiếc bình đựng vôi (dùng để ăn trầu), lấy vôi quệt vào gan bàn tay rồi vuốt dọc theo cột sống người bệnh từ cổ xuống thắt lưng vài lần cho tới khi thấy khỏi mới thôi. Từ kinh nghiệm dân gian, sau này hễ gặp những người bị đau bụng, cụ Tán đã giúp họ giảm hoặc dứt hẳn cơn đau bằng cách dùng gan bàn tay của mình (mà không hề quệt vôi) vuốt trên cột sống của người bệnh. Quả thật, với cách này người bệnh đều thấy đỡ đau, có người thì khỏi đau.
Còn nhớ, năm 1981 – 1982, phương pháp tác động cột sống của lương y Nguyễn Tham Tán đã thể nghiệm thành công chữa bệnh đau dây thần kinh hông to (thường gọi là viêm thần kinh toạ) tại Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, đạt kết quả chín mươi lăm phần trăm tốt và khá. Đây là một bệnh thường gặp trong nhân dân, làm ảnh hưởng khả năng vận động của chi dưới, thậm chí đứng lên, ngồi xuống rất khó khăn, phải điều trị dài ngày trong bệnh viện… Nên, tác động cột sống – một phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc mà dùng phần mềm của đầu ngón tay tác động trên hệ cột sống để chẩn bệnh, phòng bệnh và trị bệnh đã gây tiếng vang.
Tham gia chữa bệnh bằng phương pháp tác động cột sống tại khoa Đông y Bệnh viện Bạch Mai từ năm 1981, lương y Nguyễn Tham Tán đồng thời cũng là giảng viên giảng dạy phương pháp tác động cột sống tại trường Y học dân tộc Tuệ Tĩnh cho đến ngày nghỉ hưu. Phương pháp tác động cột sống có khả năng lớn trong điều trị các bệnh khác nhau, như bệnh về các chức năng vận động (đau lưng cấp và mạn tính, đau cổ, vai gáy, đau cánh tay, đau dây thần kinh hông (thần kinh toạ), đau quanh khớp vai, đau khớp đầu gối, đau thần kinh liên sườn…); bệnh về nội tạng (như điều hoà nhịp tim, thiểu năng động mạch vành, đau dạ dày không do vi khuẩn, rối loạn chức năng gan, hen phế quản, hen suyễn, viêm đại tràng mãn tính, rối loạn tiêu hoá…); bệnh về nội tiết và tăng sinh tế bào (kinh nguyệt không đều, rong kinh, bế kinh, hành kinh đau bụng, trứng cá nhiều, suy giảm khả năng sinh dục…).
Bác sỹ Lê Đình Yên – Khoa Dưỡng sinh khí công – xoa bóp – bấm huyệt – Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam, cho rằng, có nhiều loại bệnh ngoài dùng thuốc (Tây lẫn Đông y), thì phương pháp tác động cột sống giúp người bệnh chóng khỏi và phục hồi sức khoẻ nhanh. Bằng các động tác tác động, người tác động tạo ra một loại sóng cảm giác để cắt, hoặc giảm các phản xạ đau của người bệnh.
Cơ thể khoẻ mạnh, bình thường, thì cột sống không có bệnh. Khi cơ thể bạc nhược, hoặc có bệnh, thì biểu hiện ở trên cột sống là không bình thường (có các điểm đau). Người thầy thuốc cần tìm ra những điểm không bình thường (điểm đau) đó để giải toả, hay làm mất những điểm không bình thường đó. Trong các điểm đau có nhiều yếu tố kèm theo. Độ tinh xảo của người thầy là phát hiện lý do để xuất hiện điểm đau ấy. Sở dĩ tác động cột sống có hiệu quả trong chữa bệnh thực sự, theo thầy bởi nó điều hoà chức năng các tạng phủ trong cơ thể và cân bằng âm dương. Khi cân bằng được âm dương thì người bệnh hết bệnh… Ngay cả chữa chứng yếu sinh lý, thì ngoài dùng bài thuốc đông y chữa trị, còn có thể chữa bằng phương pháp tác động vào cột sống.
Phương pháp chữa bệnh bằng tác động cột sống, theo thầy Lê Đình Yên, là nó được đúc rút từ dân gian, từ kinh nghiệm chữa bệnh và giảng dạy của cố lương y Nguyễn Kiều (người sáng lập ra trường Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, nay là Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam), từ cụ Nguyễn Tham Tán (giảng viên của trường) và nhiều giáo sư, bác sỹ của Học viện.
Thứ Năm, 25/07/2013
1. Loại phong hàn: 2. Loại phong nhiệt: 3. Loại âm hư: 4. Trà tía tô gừng
Bắt mạch bằng máy
Các bệnh lý tuyến giáp theo ông Đinh Lai Thịnh – giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ trong y học cổ truyền, gồm:
1. Bướu tuyến giáp đơn thuần hay bướu tuyến giáp lành tính, đôi khi quen gọi ngắn gọn là bướu cổ. Nguyên nhân là do thiếu hụt iod trong đất và nước, là nguyên nhân quan trọng ở vùng bướu cổ địa phương. Sự thiếu hụt này gây lên tình trạng gọi là rối loạn do thiếu iod. Bên cạnh do rối loạn trong quá trình sinh tổng hợp hormon tuyến giáp, yếu tố miễn dịch của một số người có kháng thể kích thích tuyến giáp làm tăng khối lượng song không làm thay đổi khả năng sinh tổng hợp hormon tuyến giáp; do dùng một số loại thức ăn (như các rau củ thuộc họ cải: củ cải, bắp cải chứa chất ngăn cản sự tạo ra các tiền chất của T3, T4…), hay một số loại thuốc gây rối loạn chuyển hoá iod. Điều trị bệnh này nhằm giảm kích thước của bướu, giữ cho chức năng tuyến giáp luôn ở trạng thái bình thường.
2. Bệnh bướu giáp lan toả nhiễm độc (bệnh Basedow): được coi là một bệnh nội tiết nặng, trong đó tình trạng bệnh lí nổi bật là tổ chức tuyến giáp tăng sinh và phì đại lan toả, đồng thời tiết quá nhiều hoocmon giáp trạng so với nhu cầu của cơ thể, dẫn tới nhiễm độc nội sinh hoocmon giáp các cơ quan trong cơ thể. Bệnh căn bởi các chấn thương tinh thần, có thể gặp bệnh xuất hiện ngay sau các viêm nhiễm cấp tính đường hô hấp, viêm họng, cúm, bạch hầu…
3. Bệnh suy chức năng tuyến giáp: là tình trạng giảm chức năng tuyến giáp dẫn đến sự thiếu hụt tổng hợp hormon tuyến giáp. Bệnh có thể xuất hiện sau khi sinh hoặc trong thời kỳ trưởng thành, gây ra chứng đần độn (cretinism). Nguyên nhân do thiếu hụt bẩm sinh men tổng hợp hormon giáp, do tai biến sau điều trị phóng xạ, chiếu xạ, thiếu hụt cung cấp iod, thuốc kháng giáp tổng hợp, suy toàn bộ chức năng tuyến yên, thiếu hụt TSH đơn độc, u vùng dưới đầu…
4. Bướu tuyến giáp thể nhân: Tuyến giáp to có thể dưới dạng nhân, đơn nhân hay nhiều nhân. Bướu tuyến giáp nhiều nhân có thể xuất hiện ngay từ đầu, hoặc trên nền một bướu to lan toả đã có sẵn. Dạng bướu này là sự phì đại của toàn bộ tuyến giáp, trong đó xen kẽ nhiều nhân giáp. Nếu không có biến chứng thì chức năng tuyến giáp không thay đổi. Trong số bệnh nhân có bướu tuyến giáp thể nhân thì 50% là bướu đơn nhân. Về nguyên nhân của bướu tuyến giáp thể nhân cũng tương tự như bướu cổ đơn thuần lan toả.
5. Ung thư tuyến giáp: Là u ác tính của tế bào biểu mô nang tính. Có bốn thể loại khác nhau về diễn biến và tiên lượng đó là u thư tuyến giáp thể nhú, thể nang, thể kém biệt hoá, và thể tuỷ.